Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Kihon Ashi Sabaki – Kỹ thuật di chuyển bằng chân

Thực hiện một kỹ thuật trong khi di chuyển về phía trước hoặc phía sau, hoặc sang phải hoặc trái, không phải là một vấn đề của việc đi bộ bình thường hoặc chạy hoặc nhảy như con ếch. Di chuyển theo hướng nào phụ thuộc vào cách sử dụng đôi chân một cách chính xác.
Karate Việt Nam, Shihan Phan Sử, Karate Đắk Lắk, Karate Thế giới, Võ thuật Thế giới
Karate Nhân Tâm đang tập động tác di chuyển
Một chân làm trụ.
Đây là chân đối diện bên phải theo hướng chuyển động, và nó cung cấp sức cho các kỹ thuật bắt đầu. Với sự mạnh mẽ của đầu gối, bàn chân được định hướng với sàn nhà, tạo ra một phản ứng. Hông và trên cơ thể sau đó di chuyển (phía trước, phía sau, phải, trái, …) cùng với các chân khác.
Chân lướt, chân di chuyển trên sàn nhà nhẹ.
Sự khác biệt giữa các chân trụ và chân chuyển động là một điểm cơ bản quan trọng. Nó phải được học kỹ lưỡng và đưa vào thực hiện. Các chân trụ để đá và đẩy sàn mạnh; các chân lướt, chân di chuyển rất nhanh chóng nhưng rất trơn tru. Dưới đây là danh sách các kỹ thuật của Shito Ryu:
+ Mae Ayumi Ashi – Bước chéo về phía trước
+ Mae Naname Ayumi Ashi – Bước theo đường chéo về phía trước
+ Ushiro Ayumi Ashi – Bước chéo về phía sau
+ Ushiro Naname Ayumi Ashi – Bước theo đường chéo về phía sau
+ Mae Yori Ashi – Lê bước chân về phía trước
+ Mae Naname Yori Ashi – Lê bước chân chéo về phía trước
+ Ushiro Yori Ashi – Lê bước chân về phía sau
+ Ushiro Naname Yori Ashi – Lê bước chân chéo về phía sau
+ Mae Tsugi Ashi – Bước lướt về trước
+ Mae Naname Tsugi Ashi – Bước lướt chéo về trước
+ Ushrio Tsugi Ashi – Bước lướt về sau
+ Ushiro Naname Tsugi Ashi – Bước lướt chéo về sau
+ Hiraki Yose Ashi – Kéo lê chân
+ Hiraki Kosa Ashi – Di chuyển bàn chân chéo (X)
Shihan Phan Sử

Lịch sử môn võ Taekwondo

Taekwondo (跆拳道), hay Đài Quyền Đạo theo âm Hán-Việt (trước kia thường được phiên âm không hoàn toàn chính xác là Thái Cực Đạo). Đây là môn thể thao quốc gia của Triều Tiên và là loại hình võ đạo (mudo) thường được tập luyện nhất của nước này. Nó cũng là một trong các môn thể thao phổ biến nhất trên thế giớ
Trong tiếng Triều Tiên, Tae (태, hanja 跆 đài) có nghĩa là “đá bằng chân”; Kwon (권, hanja 拳, quyền) nghĩa là “đấm bằng tay”; và Do (도, hanja 道, đạo) có nghĩa là “con đường” hay “nghệ thuật.” Vì vậy, Taekwondo có nghĩa là “cách thức hay nghệ thuật đấu võ bằng tay và chân.”
1. Lịch sử
Võ thuật ở Hàn Quốc có lịch sử lâu đời bắt đầu từ thời cổ đại. Taekwondo, môn võ thuật của Hàn Quốc, có thể bắt nguồn từ triều đại Hoguryo năm 37 trước Công nguyên. Người ta đã phát hiện ra tại di tích của mồ mả hoàng gia Muyongchong và Kakchu-chong xây cất trong khoảng từ năm thứ 3 đến năm 427 nhiều bức tranh vẽ trên tường có cảnh những người đàn ông đang tập luyện Taekwondo. Trên trần của Muyong-chong có bức tranh miêu tả cảnh hai người đàn ông đối diện nhau trong một tư thế tập luyện Taekwondo. Khởi đầu, môn võ thuật này có tên là Subakhi.
Taekwondo cũng được tập luyện tại Silla một vương quốc được thành lập ở đông nam Triều Tiên vào khoảng 20 năm trước triều đại Koguryo ở phía bắc. Tại Kyongju, kinh đô trước đây của Silla, hình hai vị Kim Cang trừ ma diệt quỷ bảo vệ Phật giáo trong tư thế tấn Taekwondo được khắc trên bức tường trong hang động Sokkuram ở đền Pulkuk-sa. Con cháu của giới quý tộc ở Silla đã được tuyển tập trung thành nhóm được gọi là Hwarangdo một tổ chức quân đội, giáo dục và xã hội. Trong thời gian này tổ chức Hwarangdo đã có ảnh hưởng rất lớn và làm phong phú thêm cho nền văn hoá và võ thuật Triều Tiên.
Nhiều tài liệu cho thấy tổ chức này không chỉ xem việc tập luyện Taekwondo như là phần thiết yếu trong huấn luyện quân đội và tăng cường thể chất mà còn phát triển Taekwondo như là một hoạt động giải trí. Các khám phá nghệ thuật cổ như các bức tranh trên tường ở những ngôi mộ của triều đại Kyoguryo, các hình ảnh khắc trên đá ở những đền, chùa được xây dựng trong khoảng thời gian của triều đại Silla và nhiều tài liệu cho thấy các thế tấn, kỹ thuật và hình dáng rất giống với các thế tấn và hình dáng của Taekwondo ngày nay.
Trong lịch sử của Triều Tiên (918-1392), Taekwondo, lúc bấy giờ được gọi là Subakhi, được tập luyện không chỉ được xem như là một kỹ năng để tăng cường sức khoẻ mà nó còn được khuyến khích tập luyện như một một võ thuật có giá trị cao. Có ít nhất là hai tài liệu được ghi chép trong thời gian đó cho thấy rằng Subakhi đã trở nên rất phổ biến đến nỗi nó được đem biểu diễn cho hoàng đế xem. Điều này có nghĩa là Subakhi đã được tập luyện như một môn thể thao có tổ chức cho khán giả xem và các chuyên gia cho rằng vào thời gian đó người Hàn Quốc rất thích khía cạnh thi đấu của võ thuật.
Thời gian của triều đại Chosun có một quyển sách phát hành về dạy Taekwondo như một môn võ thuật. Nó đã trở thành phổ biến hơn với công chúng, ngược lại với triều đại Koryo trước đây, Taekwondo chỉ độc quyền cho quân đội. Một tài liệu lịch sử viết người dân của tỉnh Chungchong và Cholla đã tụ tập ở một làng tổ chức thi đấu Subakhi. Tài liệu này cho thấy Subakhi đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động thể thao quần chúng. Hơn thế nữa, dân chúng muốn tham gia vào quân đội của hoàng gia rất háo hức tập luyện Subakhi bởi vì nó là môn kiểm tra chính trong chương trình tuyển chọn.
Đặc biệt, vua Chonjo (1777-1800) phát hành một bộ sách giáo khoa về phong tục và tập quán Hàn Quốc có tựa đề là Chaemulbo, trong đó nói rằng Subakhi được gọi là Taekkyon, tên trước khi được gọi là Taekwondo.
Các chuyên gia cho rằng vấn đề quan trọng ở đây không chỉ là tên được thay đổi mà cả kỹ thuật cũng thay đổi một cách đột ngột. Trong giai đoạn lịch sử Subakhi trước đó, kỹ thuật tay được nhấn mạnh. Các tài liệu lịch sử có liên quan đến Taekkyon được xuất bản vào khoảng cuối thế kỷ 19 ghi lại rằng nó là một nghệ thuật được đặt phần lớn trên các kỹ thuật chân. Lúc bấy giờ, Taekkyon thật sự là một môn thi đấu có hệ thống tập trung vào kỹ thuật chân và chiến thuật. Vì vậy thật là rõ ràng trong suốt thời gian triều đại Chonsun, Subakhi đã trở thành một môn thể thao quốc gia quan trọng và thu hút sự chú ý của cả hoàng gia lẫn công chúng.
Vào cuối triều đại Chonsun, Subakhi bắt đầu suy tàn vì sự bỏ mặc của hoàng gia cũng như sự ăn sâu của đạo Khổng đề cao giá trị văn chương. Subakhi chỉ tồn tại như một hoạt động giải trí của người dân thường.
Vào cuối thế kỷ 19, quân đội Hàn Quốc suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự áp bức của đế quốc Nhật đối với dân Hàn Quốc rất hà khắc và việc tập luyện võ thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bị cấm đoán. Tuy nhiên, các tổ chức kháng Nhật sử dụng Taekwondo như một phương pháp huấn luyện tinh thần và thể chất.
Sau giải phóng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, những người có nguyện vọng khôi phục lại môn võ thuật cổ truyền Taekwondo bắt đầu dạy trở lại. Cuối cùng vào tháng 9 năm 1961, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập. Tháng 10 năm 1963, Taekwondo đã trở thành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Thể thao Quốc gia. Vào thập niên 1960, huấn luyện viên Hàn Quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Đây là bước ngoặt trong lịch sử phát triển của môn võ này.
Taekwondo được xem như môn thể thao thế giới tại Giải Vô địch Thế giới lần 1 được tổ chức tại Seoul 1973 với 19 quốc gia tham dự. Tại cuộc họp ở Seoul được tổ chức bên lề của giải Vô địch Taekwondo Thế giới lần 1, đại diện của các quốc gia tham dự đã thành lập Liên đoàn TKD Thế giới. Từ đó, giải Vô địch Taekwondo Thế giới được tổ chức 2 năm một lần.
Hiện nay Liên đoàn Taekwondo Thế giới có 166 quốc gia thành viên toàn thế giới, với khoảng 50.000.0000 người tập luyện. IOC đã công nhận Taekwondo là môn thể thao quốc tế tại đại hội lần thứ 83 năm 1980, Taekwondo được công nhận là môn thi đấu giành huy chương tại Thế vận hội 2000 và 2004.
Về tên gọi của Taekwondo ở Việt Nam, do được truyền bá bởi quân đội Nam Triều Tiên nên thời gian đầu môn võ này được gọi là Võ Đại Hàn, sau đó được gọi là Túc quyền đạo, Thái cực đạo (tên gọi này được cho là xuất phát từ lá cờ mang hình âm dương thái cực của Hàn Quốc).
2. Đặc điểm
Trong nỗ lực thoát khỏi ảnh hưởng từ Karatedo của các bậc thầy sáng lập môn phái Taekwondo hiện đại, và để phù hợp hơn với đặc tính của môn thể thao Taekyon truyền thống, Taekwondo chú trọng đặc biệt vào những đòn chân (chokki, cước pháp) và nhấn mạnh tính chất thể thao của bộ môn. Trong khi có một số nét tương tự Kungfu của Trung Quốc và các môn võ Triều Tiên khác như Hapkido, Tangsudo, Taekwondo có chiều hướng sử dụng bàn chân và cẳng chân qua những cú đá đầy uy lực. Các võ sư Taekwondo chuyên nghiệp đã làm cả thế giới ngạc nhiên với những kỹ năng nhào lộn phá tan những tấm gỗ đặt cách mặt đất 10 feet hay tấn công liên hoàn nhiều mục tiêu trên không.
Tuy nhiên, thực tế Taekwondo có một số lượng đòn tay (sugi) khá lớn, nếu xem xét các bài quyền và chương trình luyện tập, người tập dễ nhận thấy số lượng đòn tay của Taekwondo nhiều gấp ba lần các đòn tấn công hoặc phòng ngự bằng chân. Với số lượng đòn tay phong phú như vậy, không hề thua sút môn Quyền Anh nếu môn sinh không sao nhãng luyện tập. Dầu vậy, trong huấn luyện và thi đấu với tư cách một môn thể thao hơn là một môn võ có giá trị tự vệ, Taekwondo đặt nặng vào vai trò của các đòn chân, nên đòn tay của môn phái không tránh khỏi sự mai một và ít được trau truốt, tinh lọc để đạt được tính hiệu quả.
3. Hệ thống thứ bậc, đai
Trường phái Taekwondo ITF có 18 bậc tiến gọi là 18 đẳng, cấp (nói đúng ra là từ cấp rồi mới tới đẳng), khởi đầu môn sinh mang cấp 8, sau mỗi 3 tháng, hoặc 6 tháng ở cấp cao hơn, lại thi lên một cấp. Sau khi mang đai đen thì khoảng 2 năm lại thi lên đẳng một lần. Hệ phái Taekwondo WTF có mười trình độ (gọi là một “gup”) với chín hoặc mười cấp đai (“dan”) từ trắng, vàng, xanh lục, xanh dương, nâu, đỏ vào cao nhất là đai đen (huyền đai). Võ sinh mới vào luyện bắt đầu ở cấp 10 (đai trắng) và tăng dần trình độ xuống cấp 1 (đai đỏ). Tại nhiều trường, võ sinh sau khi luyện tới trình độ trung bình gọi là cho dan bo (chuẩn huyền đai) hay dan bo, tức là “võ sinh đai đen”. Sau một vài lần vượt qua các kì thi nwu, võ sinh thi bài thi một đẳng, sau đó đạt đẳng 1 (nhất đẳng huyền đai).Mức dan tăng dần tới tối đa là 9 dan {ITF} hay 10 dan (Kukkiwon), thường cửu đẳng và thập đẳng là cấp của trưởng môn, còn các võ sư thường không đạt được. Hệ Kukkiwon không cho phép võ sinh dưới 15 tuổi đạt các dan. Thay vì vậy các võ sinh đạt đẳng poom, hay “võ sinh đai đen ít tuổi”. Võ sinh chưa đến tuỏi trưởng thành có thể đạt 4 poom, và tất cả các đẳng poom đều chuyển thành đẳng dan khi võ sinh tới đủ tuổi và qua kì thi lên cấp tiếp theo.
Cách tuyển chọn trong Taekwondo chủ yếu dựa vào các kỹ thuật và lý thuyết. Các bài trình diễn kỹ thuật gồm các cú đấm và cú đá, cũng có thể bao gồm cả thế tấn và phương pháp thở. Phần lý thuyết phải trình bày bằng lời các thuật ngữ trong tiếng Hàn, các thông tin quan trọng (chẳng hạn các điểm sinh tử và các luật quan trọng) và một sự hiểu biết chung về taekwondo.
 4. Hệ thống bài quyền
Liên đoàn Taekwondo quốc tế
Liên đoàn Taekwondo quốc tế (International Taekwondo Federation, ITF), còn gọi là trường phái Chang Hong theo biệt hiệu của tổ sư sáng lập Choi Hong Hi (thập đẳng huyền đai), hiện chủ yếu phát triển ở Bắc Triều Tiên. Trường phái này gồm 20 bài quyền (Hyong) từ sơ cấp đến cao cấp lần lượt như sau:

1. Chonji, 2. Tan-gun, 3. To-san, 4. Won-hyo, 5. Yul-Kok, 6. Chung-gun, 7. Toi-gye, 8. Hwa-rang; 9. Chung-mu; 10. Kwang-gae; 11. Po-un; 12. Kae-baek; 13. Yu sin; 14. Chung-jang; 15. Ul-chi; 16. Sam-il; 17. Ko-dang; 18. Choi-yong; 19. Se-jong; 20. Tong-il.
Liên đoàn Taekwondo thế giới
Hệ thống quyền của Liên đoàn Taekwondo thế giới do Uh Hyon Kim sáng lập (World Taekwondo Federation, WTF) gồm 25 bài, trong đó có 8 bài Taegeuk (Thái Cực) và 8 bài Palgwe (Bát quái):
1. Taegeuk 1 Jang (Càn), 2. Taegeuk 2 Jang (Đoài), 3. Taegeuk 3 Jang (Ly), 4. Taegeuk 4 Jang (Chấn), 5. Taegeuk 5 Jang (Tốn), 6. Taegeuk 6 Jang (Khảm), 7. Taegeuk 7 Jang (Cấn), 8. Taegeuk 8 Jang (Khôn),
9. Koryo (Triều Tiên quyền), 10. Keumgang (Kim Cương quyền), 11. Taebaek (Thái Bạch Quyền), 12. Pyongwon (Điền Thổ quyền), 13 Sipjin (Thập Tự quyền), 14.Jitae (Địa quyền), 15. Chonkwon (Thiên quyền), 16. Hansu (Thủy quyền), 17. Ilyeo (Vạn tự quyền),
18. Palgwe 1 (Bát quái), 19. Palgwe 2, 20. Palgwe 3, 21. Palgwe 4, 22. Palgwe 5, 23. Palgwe 6, 24. Palgwe 7, 25. Palgwe 8.
Shihan Phan Sử

Nguồn gốc phát triển môn võ Muay Thai

Muay Thai xuất xứ từ môn ”Krabi Krabong”, một môn võ thuật của đất Xiêm (SIAM, Tên cũ của Thái Lan).

Thời xa xưa, quân lính hoàng gia thường chiến đấu với kiếm ở tay phải. Nhưng sau đó nghệ thuật chiến đấu bằng kiếm không còn nhu cầu cần thiết tập luyện trong quân đội nữa vì sự xuất hiện của súng đạn, nó dần dần biến đổi và trở thành môn võ quen thuộc trong dân chúng, được giữ thành một bộ môn thể thao chiến đấu và trở thành niềm tự hào của người dân Thái.
Karate Việt Nam, Shihan Phan Sử, Karate Đắk Lắk, Karate Thế giới
Đây là môn võ cổ truyền của Thái Lan
Muay Thái đầu tiên xuất hiện như những động tác tự vệ, sau dần phát triển rộng rãi thành một môn thể thao. Thời kỳ Sukothai (1238-1377), Muay Thai được coi như một biểu tượng của giới quý tộc, mang lại những thay đổi lớn lao trong cuộc sống.
Ban đầu, những võ sĩ tập luyện và thi đấu Muay Thai không có gang tay và được sử dụng đòn vào háng.
Đến thời kỳ Ayutthaya, một trung đội bảo vệ hoàng gia được thành lập, và được huấn luyện Muay Thai một cách thuần thục. Những trại huấn luyện cũng được thành lập, và cũng bắt đầu từ đây, gang tay bảo hộ được trang bị thêm cho Muay Thai.
Nai Khanom Tom – huyền thoại Muay Thai
Lịch Sử của Muay Thai bắt đầu vào khoảng năm 1774, một nhà quyền thuật của phái Muay Boran (hậu thân của Muay Thai hiện đại) nổi tiếng của Thái là Nai Khanomtom, không may anh ta bị quân xâm lăng Miến Điện (Myanmar ngày nay) bắt cùng nhiều tù nhân khác sau trận thất thủ đẫm máu của thủ đô Ayutthaya thời bấy giờ. Nai Khanomtom bị bắt và đưa về thủ đô Rangoon, Miến Điện.
Trong một buổi tiệc ăn mừng chiến thắng của mình, nhà vua muốn được thấy võ thuật Thái Lan giao đấu cùng các môn võ cổ truyền của nuớc mình, với ý đồ muốn khoe nền võ thuật cực thịnh ”bất bại” của Miến Điện. Biết được tù binh Nai Khanomtom là một cao thủ quyền Thái, nhà vua quyết định hạ nhục anh bằng cách bắt phải giao đấu với vô địch Miến Điện đang có mặt.
Huyền thoại Muay Thai
Huyền thoại Muay Thai
Trước khi vào cuộc đấu, Nai Khanomtom xin được dùng điệu múa Wai Kru (Ram Muay) đặc trưng của quyền thuật Thái để biểu diễn trước khi chiến đấu. Nhờ điệu múa đó đầy huyền hoặc đó mà các thần linh của tổ tiên Thái giúp cho Nai Khanomtom làm mờ mắt đối thủ và đè bẹp cao thủ đất Miến Điện trước mặt nhà vua một cách dễ dàng. Với lòng háo thắng và làm nhục quyền thuật Thái, nhà Vua ra lệnh cho Nai Khanomtom phải đấu thêm với 9 võ sĩ khác nếu muốn được sống và thả tự do. Không có chọn lựa nào khác nào ngoài việc phải chấp nhận chiến đấu thêm 9 trận tiếp theo, mà trận cuối cùng là một võ sư danh tiếng nhất của Miến Điện.
Cuối cùng bằng tất cả quyết tâm và nghị lực Nai Khanomtom đánh gục tất cả 10 cao thủ bằng toàn kỹ thuật chân truyền đặc trưng của võ Thái. Nhà Vua phải ngậm ngùi thốt lên: ”Mỗi đòn thế của võ Thái chứa đầy nọc độc, chỉ với tay không mà đánh gục ngã 10 cao thủ của ta, chỉ vì nhà vua ngươi không tốt mới mất nước, nếu nhà vua ngươi tốt thì không cách nào mà ta có thể lấy được thành phố Ayutthaya”.
Vì mến chuộng tài năng của Nai Khanomtom, nhà Vua ra lệnh ban cho anh ta hai lựa chọn: “Được sống giàu sang suốt đời hay là được cưới hai cô vợ xinh đẹp người Miến Điện”. Sau một hồi suy nghỉ đắn đo, Nai Khanomtom thưa rằng: “Thưa bệ hạ, tiền là vật dễ kiếm, tôi xin nhận người đẹp.”
Nhà vua liền cho anh ta 2 cô vợ và thả tự do cho quay về cố quốc với tất cả tù binh Thái khác. Để kỷ niệm và vinh danh môn võ Muay Thai, Hoàng gia Thái Lan lấy ngày 17/3 hàng năm làm “Ngày Võ Sĩ” hay còn gọi là “Ngày Quyền thuật quốc gia” cho cả nước ghi ơn.
Shihan Phan Sử

Nguồn gốc Môn võ Krav Maga (môn võ Quân đội xuất phát từ đường phố)

Krav Maga (chữ Do Thái: קְרַב מַגָּע) là một hệ thống võ tự vệ được phát triển bởi quân đội Israel, chủ yếu là sự kết hợp của các môn võ boxing, savate, Muay Thai, Wing Chun, Judo, Jujutsu, đô vật và các đòn khóa được rút tỉa qua quá trình áp dụng vào thực tiễn. Krav Maga được xem là võ có các đòn thế rất thực tế, chú trọng vào các tình huống thực tế, đồng thời được đánh giá rất hiệu quả và cực kỳ tàn khốc.

Krav Maga (chữ Do Thái: קְרַב מַגָּע) là một hệ thống võ tự vệ được phát triển bởi quân đội Israel, chủ yếu là sự kết hợp của các môn võ boxing, savate, Muay Thai, Wing Chun, Judo, Jujutsu, đô vật và các đòn khóa được rút tỉa qua quá trình áp dụng vào thực tiễn. Krav Maga được xem là võ có các đòn thế rất thực tế, chú trọng vào các tình huống thực tế, đồng thời được đánh giá rất hiệu quả và cực kỳ tàn khốc.
Krav Maga: môn võ Quân đôi xuất phát từ đường phố
Krav Maga: môn võ Quân đôi xuất phát từ đường phố
Krav Maga được cho rằng là biến thể của kỹ thuật đánh đường phố được phát triển bởi võ sư Imi Lichtenfeld, người Israel gốc Hungary. Ông đã từng là võ sĩ quyền anh và võ sĩ đô vật – từng là môn võ chính của một bộ phận người Do Thái sử dụng trong thời gian chống Phát Xít. Khoảng cuối những năm của thập kỷ 1940, Imi Lichtenfeld bị bắt và bị đày đến Israel, ông dần bắt đầu sáng tạo và tạo hệ thống tập luyện đồng thời kỹ thuật cận chiến được sử dụng cho nền tảng võ thuật cho Lực lượng Phòng vệ Israel, ngày nay được biết đến là võ Krav Maga và đã được chắt lọc để dạy cho quân đội, cảnh sát và thường dân.
Triết lý của Krav Maga là vô hiệu hóa mối nguy hiểm càng nhanh càng tốt. Do đó Krav Maga luôn chú trọng đặt ra các tình huống giả định nhất định trong thực tế và đồng thời giải quyết các mối nguy hiểm ở cấp độ sử dụng vũ lực quân sự. Krav Maga được Lực lượng Phòng vệ Israel, thường được biết đến là lực lượng đặc biệt. Krav Maga được phát triển và được chọn sử dụng cho các lực lượng hành pháp và lực lượng tình báo, như Mossad và Shin Bet.
Trận đấu của Krav Maga
Trận đấu của Krav Maga
Nguồn gốc căn bản
Krav Maga khuyến khích học viên tránh đánh nhau ở mức cao nhất. Nhưng nếu đánh nhau thật sự thì phải vô hiệu hóa đối phương với thời gian nhanh nhất. Những đòn đánh thường đánh vào những vùng dễ tổn thương nhất của cơ thể. Các đòn đánh của Krav Maga khá nguy hiểm, vì kể cả trong lúc luyện tập có thể gây chấn thương, một số đòn đánh có thể gây tổn thương nặng nề hoặc dẫn đến tử vong ngay lập tức. Do đó Krav Maga khuyến khích họ trò không đánh nhau và chỉ sử dụng khi thực sự cần thiết để bảo vệ mình hay có lý do chính đáng.
Học viên được học tự vệ và phản đòn một cách nhanh và hiệu quả nhất, do Krav Maga chú trọng vào những điều:
– Tấn công vào ngực nhanh nhất có thể. (hoặc tấn công vào cổ)
– Tấn công nhắm vào các vùng như: mắt, cổ, yết hầu (cổ họng), mặt, đản trung (chấn thủy), háng, xương sườn, đầu gối, bàn chân, ngót tay,…
– Tấn công càng nhanh thì càng tăng khả năng vô hiệu quá đối phương.
– Luôn vẫn giữ nhận thức xung quanh trong khi tấn công đối phương, có một số nguyên tắc đó là – tránh đòn, lùi xa khỏi đòn tấn công, sử dụng vật dụng để bảo vệ hoặc tấn công.
Việc tập luyện luôn chú trọng nhận thức của học viên khi đối mặt với kẻ tấn công, học về kiểm soát tâm lý khi đối mặt với kẻ thù và xác định mối nguy hiểm tiềm tàng trong khi bị tấn công. Krav Maga khuyến khích học viên sử dụng mọi phương thức để tránh xa bạo lực.
Lịch sử
Imrich Lichtenfeld được sinh vào 1910 tại Budapest, Hungary và lớn lên ở Bratislava, Slovakia. Ông đã tập khá nhiều môn trong đó đáng kể nhất là thể dục dụng cụ, đô vật và quyền Anh. Năm 1928, ông giành chức vô địch đô vật giải trẻ toàn Slovakia, sau đó năm 1929, ông giành vô địch đô vật ở giải người lớn ở hạng cân nhẹ và trung. Cùng năm, ông vô địch Quyền Anh và vô địch thể dục dụng cụ Thế giới. Trong suốt nhiều năm, Imrich Lichtenfeld chỉ tập trung vào đô vật, vừa để thi đấu và vừa làm huấn luyện viên.
Giữa những năm 1930, một nhóm người bài Do Thái đang dần phát triển mạnh mẽ ở Bratislava, Czechoslovakia. Lichtenfeld được làm thủ lĩnh một nhóm các võ sĩ quyền Anh và Đô vật để bảo vệ người Do Thái khỏi đám Chủ nghĩa dân tộc và đám bài Do Thái kia. Imrich Lichtenfeld nhanh chóng nhận ra đánh võ đường phố thực tế khác xa đánh ở các giải, vì Quyền Anh và Đô vật đều là môn thể thao, do đó không thể độ lại sự tàn khốc và tàn bạo của bạo lực đường phố. Do đó ông đã sáng tạo, cải thiện và đặt nền móng kỹ năng và kỹ thuật môn cho võ Krav Maga. Nhận thấy sự khó khăn ở nước sở tại, Lichtenfeld đã từ biệt mọi người, gia đình và bạn bè để lên thuyền đến một nước khác vào năm 1940.
Ngay khi vừa đến Trung Đông, Lichtenfeld lập tức tham gia vào Tổ chức bán quân sự Haganah để bảo vệ người Do Thái. Năm 1944, ông bắt đầu tập luyện cho các chiến binh ở những môn mà ông là chuyên gia đó là: rèn luyện thể chất, bơi lội, đô vật, cách tấn công bằng dao và tự vệ khỏi tấn công dao. Lichtenfeld đã tập luyện cho vài đơn vị của Haganah trong đó có Palmach (tiền thân của Lực lượng Phòng vệ Israel) và Pal-Yam, nhóm tập hợp các cảnh sát.
Vào năm 1948, nhà nước Israel được thành lập và Lichtenfeld ở thành huấn luyện viên trưởng của Lực lượng Phòng vệ Israel về rèn luyện thể lực và Krav Maga. Ông được phục vụ xuyên suốt 20 năm và trong thời gian đó ông đã dần hoàn thiện các kỹ thuật tự vệ và cận chiến tay không. Tự vệ không phải là khái niệm mới ở thời ấy, vì hầu hết các môn võ thuật khi ấy luôn đề cao khả năng tự vệ khi trình diễn cho công chúng xem, tuy nhiên tự vệ chỉ nằm ở mức các môn võ thể thao mà thôi. Ông dần hoàn thiện kỹ thuật tự vệ dựa trên khoa học và cơ thể con người. Trước khi nghỉ hưu, Lichtenfeld đưa Eli Avikzar vào để thay thế ông, Eli Avikzar dần hoàn thiện và đưa thêm nhiều kỹ thuật giú Krav Maga mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn khi sử dụng.
Imrich (Imi) Lichtenfeld và Krav Maga
Imrich (Imi) Lichtenfeld và Krav Maga
Khi Lichtenfeld nghỉ hưu, ông quyết định mở võ đường võ thuật để dạy cho thường dân một biến thể của võ thuật của quân đội, Krav Maga. Hầu hết các bí mật quân sự ông đều giấu kín và chỉ dạy cho người dân phiên bản đủ để tự vệ. Năm 1971, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Imrich Lichtenfeld lứa học sinh đầu tiên được nhận đai đen nhất đẳng ra đời đó là:  Eli Avikzar, Eyal Yanilov, Raphy Elgrissy, Meni Ganis, Haim Zut, Shmuel Kurzviel, Haim Hakani, Shlomo Avisira, Vicktor Bracha, Yaron Lichtenstein, Avner Hazan, Haim Gidon và Miki Asulin.
Năm 1978, Imrich Lichtenfeld thành lập Hiệp hội Krav Maga Israel phi lợi nhuận (IKMA) để nhằm hướng dẫn các huấn luyện viên. Ông mất vào năm 1998 tại Israel.
Khi Krav Maga muốn phát triển rộng ra toàn thế giới, thì vấn đề đặt ra là phải có các Tổ chức võ dành cho dân sự. Cho nên một nhóm các học viên đời đầu và đời thứ hai gồm có Arviat Zagal, Asaf Halevi và Dan Levy đã tạo ra một biến thể mới để phù hợp với dân sự hơn và đi dần đến sự thành lập Liên đoàn Krav Maga Thế giới.
Hệ thống đẳng cấp
Hệ thống đẳng cấp của Krav Maga
Hệ thống đẳng cấp của Krav Maga
Hầu hết đều sử dụng hệ thống đẳng cấp của Imi Lichtenfeld, nhưng hệ thống đẳng cấp này dựa trên hệ thống đẳng cấp của Judo. Bắt đầu từ Đai trắng, Vàng, Cam, Xanh lá, Xanh dương, Nâu và Đai Đen.
Tuy nhiên một số lại sử dụng hệ thống đẳng cấp khác đó là hệ thống cấp bậc. Một bậc là một cấp và tương đương với một gạch. Bắt đầu với Đai trắng tương đương với không gạch, sau đó nâng dần số gạch và đẳng cấp lên. Đẳng cấp gồm có 03 cấp đó là P – G – E. Khi ở 5 gạch ở một cấp thì khi được nâng lên sẽ chuyển sang cấp kế tiếp. Như ở cấp P và với 5 gạch thì sau khi thi nâng cấp thì sau đó được ở cấp G một gạch.
Shihan Phan Sử

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

Người Nhật nỗ lực vận động đưa Karate vào Thế Vận hội Tokyo 2020

Vào ngày 16/4 vừa qua, hai tổ chức IKO Kyokushinkaikan và Liên đoàn Karate Nhật Bản JKF đã cùng tổ chức một buổi họp báo chung tại Japan Karate Federation Center, Kouto-Ku, Tokyo để thông báo về việc vận động đưa môn Karate vào thi đấu chính thức ở Thế Vận Hội và Paralympic Games 2020 tại Tokyo.

Tham dự cuộc họp báo có sự hiện diện của các nhân vật đứng đầu Liên đoàn Karate thế giới như chủ tịch Kaicho Takashi Sasagawa, phó chủ tịch Shigeo Kurihara, tổng thư ký Toshihisa Nagura. Về phía IKO, chủ tịch Kancho Shokei Matsui, Giám đốc điều hành Masatoshi Yamada và Giám đốc phụ trách quốc tế Katsuhito Gorai cũng tham dự cuộc họp. Chủ tịch JKF Sasagawa lên tiếng phát biểu trước tiên: “Kancho Matsui và tôi đã đồng ý với nhau rằng, để phát triển hơn nữa bộ môn Karate, chúng ta cần phải đưa môn này vào thi đấu ở Thế Vận Hội. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải hỗ trợ lẫn nhau. Đây chính là chủ đề chính của buổi họp báo ngày hôm nay.”
Tiếp theo, ông Kancho Matsui lên phát biểu: “Tôi rất vui mừng thông báo rằng IKO và JKF đã trở thành những tổ chức hợp tác lẫn nhau dưới sự hỗ trợ của chủ tịch JKF Sasagawa và những thành viên điều hành khác. Chúng tôi quyết tâm phát triển rộng rãi môn Karate và mục tiêu trước mắt là đưa môn này vào thi đấu chính ở Olympic 2020 ở Tokyo.”

Dưới sự chứng kiến của truyền thông và các nhân vật điều hành của IKO, JFK và WKF, hai ông Kaicho Sasagawavà Kancho Matsui đã cùng ký vào một bản thỏa thuận và bắt đầu hợp tác chung giữa hai tổ chức này. Hiện IKO vẫn là một tổ chức độc lập với tôn chỉ duy trì triết lý cốt lõi của Full-Contact Karate. Mục tiêu hàng đâu của tổ chức này vẫn là duy trì các giải đấu đỉnh cao như World Open Karate Tournament và All Japan Karate Tournament.

Ông Kancho Matsui cũng thông báo rằng các thành viên của IKO rất hào hứng với việc tổ chức Thế Vận Hội. Tổ chức này cũng sẵn sàng hỗ trợ về mặt tổ chức huấn luyện cũng như trao đổi học tập giữa hai tổ chức IKO và JFK.
Shihan Phan Sử